dvhieu
Member
Như chúng ta đã biết, cụ Trình tuyền ngoài tiếng tăm một nhà hiền triết, một đại học thức "thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự", một cây đại thụ rợp bóng thế kỷ 16 còn là một nhà thơ lớn. Trên phương diện một thi gia, cụ Trạng đã để lại khoảng hơn 200 bài thơ(tớ chỉ thuộc vài chục bài ), thơ của cụ không những mang tính triết lý sâu xa của thời cuộc mà còn giàu chất liệu hiện thực. Cụ phê phán gay gắt bọn tham quan ô lại (ví như "Ghét chuột"), cụ truyền đạt cho đời một đạo lý đối nhân xử thế, đạo vua tôi, cha con và quan hệ bầu bạn, hàng xóm láng giềng. Đọc thơ ông là thấy cả một tấm lòng lo cho nước, thương đời, thương dân, và một tâm hồn suốt đời da diết với đạo lý: "Tiên thiên hạ chi ưu phi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc". Trong chương trình phổ thông, chúng ta đã từng được biết đến các tác phẩm của cụ: Hữu cảm, Ghét chuột, Chín mươi .v.v.. Các tác phẩm văn học chính của cụ bao gồm: Bạch Vân quốc ngữ thi tập, Bạch Vân am thi tập và một số bài văn chữ Hán. Các tập sấm ký như Trình Quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ, v.v... Dưới đây, chỉ xin trích dẫn những tác phẩm thơ. Mời các bạn cùng thao khảo, bổ sung, bình luận và chia sẻ!
[/INDENT
Bài này từng được giới thiệu trong chương trình văn học phổ thông, (không nhớ lớp mấy, cũng không biết bây giờ còn không).Đọc bài thơ này, tớ cứ thấy cái giọng thơ rất gần với Đỗ Phủ trong bài "Khách chí", nhất là 4 câu đầu:
"Xá nam xá bắc giai xuân thuỷ,
Ðản kiến quần âu nhật nhật lai.
Hoa kiến bất tằng duyên khách tảo,
Bồng môn kim thuỷ vị quân khai... "
"Xóm nam, xóm bắc xuân tràn nước
Chỉ thấy đàn âu bữa lại qua
Hoa rụng, lâu ngày không khách quét
Cửa bồng nay mới đón ông thôi..."
Bạch Vân ca
Nước Nam thường có thánh tài.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới dò tới chốn,
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới đươc mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời dể Lý vào thay,
Tám cành hoa nở dến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông A chốn ấy còn bề,
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời;
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế,
Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh bì,
Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chín thực đế kinh,
Náu mình chưa dể náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào,
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu,
Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần,
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế dã chầy,
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào,
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất Khâm phương,
Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn khôn phủ tái vô lương,
Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn khôn phù tái vô lường,
Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đà Giang phúc địa giáng linh,
Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
Trần Công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y, Chu,
Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiện xung thiện hạ thái bình.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới dò tới chốn,
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới đươc mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời dể Lý vào thay,
Tám cành hoa nở dến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông A chốn ấy còn bề,
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời;
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế,
Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh bì,
Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chín thực đế kinh,
Náu mình chưa dể náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào,
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu,
Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần,
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế dã chầy,
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào,
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất Khâm phương,
Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn khôn phủ tái vô lương,
Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn khôn phù tái vô lường,
Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đà Giang phúc địa giáng linh,
Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
Trần Công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y, Chu,
Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiện xung thiện hạ thái bình.
Trung Tân ngụ hứng
Sông ngòi vòng tây bắc,
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.
Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.
Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.
Làng xóm bọc tây nam.
Giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên Vân am.
Xe ngưa bụi không đến,
Hoa, trúc tay tự trồng.
Gậy, dép bén mùi hoa,
Chén, cốc ánh sắc hồng.
Rửa nghiên, cá nuốt mực,
Pha trà, chim lánh khói.
Ngâm thơ thừa tiêu dao,
Uống rượu thêm khoan khoái.
Người xảo ta thì vụng,
Ấy vụng thế mà hay!
Ta vụng người thì xảo.
Ấy xảo thế mà gay!
Tính suy lẽ trời đất,
Nghiền ngẫm việc xưa nay:
Đường đời rất ghập ghềnh,
Chông gai cần phải cắt.
Lòng người rất hiểm nghèo,
Buông ra liền quái quắc.
Quân tử biết răn mình,
Chí thiện làm mẫu mực.
"Xá nam xá bắc giai xuân thuỷ,
Ðản kiến quần âu nhật nhật lai.
Hoa kiến bất tằng duyên khách tảo,
Bồng môn kim thuỷ vị quân khai... "
"Xóm nam, xóm bắc xuân tràn nước
Chỉ thấy đàn âu bữa lại qua
Hoa rụng, lâu ngày không khách quét
Cửa bồng nay mới đón ông thôi..."
Sửa lần cuối: