1.3. Khái quát hóa một số đặc tính của ngũ hành
1.3.1.Năm bước của vận động hay Ngũ hành
Ba bước đầu của sự vận động là thu vào, tản ra và sinh mới. Ba bước ấy biến từ không thành có. Hai bước sau là sự trở lui của vận động bao gồm hoàn thiện và suy tàn. Tổng cộng sự vận động có năm bước, hay năm hành trình. Năm bước ấy biến đổi sự vật từ nhỏ bé thành phương trưởng, từ âm nhu thành dương cương, từ vô hình thành hữu hình, rồi lại tiếp tục biến đổi sự vật từ đỉnh cao về nhỏ bé, từ dương về âm, từ hữu hình về lại vô hình, để rồi lại tiếp tục một chu trình vận động mới. Quá trình vận động đó trùng trùng, điệp điệp, lớp này tiếp lớp kia, xen kẽ đan chéo nhau, thúc đẩy kìm hãm nhau.
Nếu nhìn vỏ ngoài của sự vận động vô cùng và bất tận đó, ta thấy mọi sự thật phức tạp. Nhưng nếu qui lại thành Ngũ hành ta thấy vấn đề trở nên thực đơn giản. Chính vì vậy Lão tử mở đầu trước tác của ông bởi câu: “Đạo khả đạo phi thường đạo” (3). Viết câu đó ra, Lão tử có ý rằng cái khả dĩ được gọi là đạo bao trùm cho mọi sự vật và quá trình trong trời đất phải là đạo phi thường. Đạo phi thường đó chính là qui trình vận động theo 5 bước, mà người xưa gọi là Ngũ hành.
Vận động trong vũ trụ là vô biên và vĩnh hằng. Hình thức của sự vận động không phải là một đường thẳng kéo dài mãi mãi, mà luôn khúc khuỷu quanh co. Quan sát thực tế cổ nhân đã nhận thấy các bước quanh co ấy chung qui chỉ có 5 giai đoạn. Giai đoạn 1 là tụ sinh, giai đoạn 2 là khởi phát, giai đoạn 3 là đột phá, giai đoạn 4 là hoàn thiện, giai đoạn 5 là suy tàn. Sau đó lại bắt đầu sự khởi sinh một vòng mới với những bước quanh co giống như trước, nhưng ở trình độ và qui mô khác. Năm bước của sự vận động đó, người xưa đã biểu tượng hóa thành Ngũ hành. Tức là 5 hành trình, lộ trình, hay giai đoạn. Ngũ hành không phải là các biểu tượng tĩnh tại như Kim là sắt thép, Thủy là nước, Mộc là cây cỏ, Hỏa là lửa, Thổ là đất. Ngũ hành chính là 5 phép chuyển hóa (chứ không phải 72 phép biến hóa như của Tôn Ngộ Không). Mọi sự vận động trong tự nhiên và xã hội không thể ra ngoài 5 phép chuyển hóa đó. Vậy Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ chính là 5 biểu diễn toán học mô tả 5 phép chuyển hóa đó. Các phép chuyển hóa ấy có quan hệ chặt chẽ với nhau theo một thứ tự nhất định. Sự vận động nào đi đúng trật tự trên thì thuận tự nhiên, đi trật thì gọi là ngược tự nhiên. Cho nên, người ta nói “con tạo xoay vần” với hàm nghĩa là tạo hóa thì “xoay” theo chiều thuận, còn con người có thể vì ý chí chủ quan mà “vần ngược” hoặc “vần thuận.”
Khi phân tích về sự thở chúng ta đã gán cho Ngũ hành một số đặc tính cơ bản. Cụ thể như sau:
-Kim là tích tụ có chọn lọc,
-Thủy là phân tán và thử sai,
-Mộc là sáng tạo, đột phá, trong những điều kiện nhất định,
-Hỏa là hoàn thiện cái mới được sáng tạo, sao chép mô hình, nhân rộng cải tiến mô hình,
-Thổ là sự suy kiệt, khi năng lượng dành cho sự nỗ lực phát hỏa đã hết. Lúc đó theo các nguyên lý của khoa học tự nhiên (hóa học, vật lý, sinh học) chính là quá trình chuyển đổi trạng thái của vật thể. Trong lòng của sự suy kiệt và rời rã lại dần dần có sự tích tụ năng lượng, khối lượng, vật chất, tinh thần,…để chuẩn bị cho một chu trình phát triển biến hóa sau nữa, dưới dạng thức khác. Chính vì thể cổ nhân bảo Thổ có tính nuôi dưỡng. Thổ trong phép bấm độn, trong tử vi, trong định phương hướng,… nằm ở khu vực trung tâm chính là vì nó có tính nuôi dưỡng. Thổ theo ngôn ngữ mới là môi trường cho sự tìm tòi của tích Kim vòng mới.
Năm phép chuyển hóa, năm biểu tượng Ngũ hành, lẽ ra có thể được thay thế bởi các ký hiệu toán học, các nét chấm như trên Hà đồ Lạc thư, hoặc các vạch liền hay vạch đứt như trong Kinh dịch, nhưng nếu biểu diện như thế thì ta lại làm cho Ngũ hành thêm thần bí. Vì vậy chúng tôi dùng những từ ngữ nôm na để giải mã như sau.
Giai đoạn 1 tụ sinh, biểu tượng là hành KIM, chính là quá trình tụ vào, thu vào, tích lũy, hay còn gọi là tích KIM. Mọi quá trình mang tính thu vào, tích lũy đều là KIM. Bất kể là tích vàng bạc, kim loại hay tích nước, tích gỗ, tích đức, tích kiến thức, hay hít không khí vào phổi… đều thuộc về hành KIM. Hành Kim là khởi đầu của mọi quá trình vận động phát triển.
Giai đoạn 2 khởi phát, biểu tượng là hành THỦY. Sự tích lũy đến mức nào đó sẽ dẫn đến tản ra, phân tán ra, tất nhiên trong tích lũy đã có chế biến, và chọn lọc. Ví dụ phổi tích không khí, gồm có nitơ, ôxy, nhưng chỉ chọn lọc ôxy để tản ra trong các mạch máu và tế bào. Vậy hành THỦY là tản ra, như ta đổ cốc nước xuống đất thì nước tản ra xung quanh và thấm dần vào lòng đất. Sự tản ra là khởi phát cho quá trình phát triển.
Giai đoạn 3 đột phá, biểu tượng là hành MỘC. Sự tản ra của các yếu tố nhất định làm sinh mới một cái gì đó. Cho nên sau THỦY ắt đến MỘC, Ví dụ sự tản ra của dưỡng chất và ôxy vào tế bào làm sinh sôi các tế bào mới; sự tản ra của phân gio, nước, ánh sáng và hạt giống làm sinh mới cây cỏ. Hành Mộc là biểu tượng của cái mới sinh thành, cho nên người xưa ví giai đoạn này nhự sự nảy chồi của cây cối, do đó gán cho giai đoạn này cái tên là Mộc. Hành Mộc cũng chính là quá trình sáng tạo. Những thành tựu lớn lao mà nhân loại đã đạt được trong suốt quá trình tiến hóa chính là lớp lớp các hành Mộc của bao thế hệ đã qua.
Giai đoạn 4 hoàn thiện, biểu tượng là hành HỎA. Đó là quá trình hoàn thiện của cái mới sinh trong giai đoạn MỘC. Sự hoàn thiện mô hình cho thích ứng với thực tế. Khi mô hình đã hoàn thiện mỹ mãn thì tiếp tục nhân rộng ra. Ví dụ mô hình nuôi tôm nước lợ sau khi đã được thử nghiệm tốt, đã được chứng tỏ có hiệu kinh tế ở qui mô gia đình, qui mô doanh nghiệp tại một địa phương thì nó được nhân rộng ào ào như phong trào. Sự ào ào bừng bừng ấy mang sắc thái của lửa. Cho nên cái gì mang tính chất nhanh gấp, ào ào, bừng bừng là thuộc về hành HỎA. Một người nóng tính làm gì cũng mạnh mẽ, nhanh gấp người ta bảo rằng anh ấy có tính HỎA.
Giai đoạn 5 suy tàn, biểu tượng là hành THỔ. Đó là giai đoạn nghỉ ngơi sau những cố gắng ào ào của hành hỏa, giống như củi cháy hết thì còn lại tro. Trong trạng thái THỔ, các phần tử của hệ thống rời rạc, ít liên hệ mật thiết, ít có tương tác với nhau. Người ta ví Thổ như mặt đất, vì nó là chỗ chứa đựng mọi phụ phẩm của các quá trình phát hỏa. Hình 1 mô tả biểu tượng cổ về Ngũ Hành.
1.3.2.Tương sinh và tương khắc
Càng ngẫm nghĩ kỹ lưỡng chúng ta càng thấy rõ nét sự tương sinh và tương khắc của năm quá trình trên.
Sơ đồ truyền thống diễn tả Ngũ hành như hình 1 (có trong tất cả các sách nói về Ngũ Hành).
Hình 1. Sơ đồ truyền thống diễn tả Ngũ hành.
Trong sơ đồ hình 1 ta thấy nét liền và nét nứt. Nét liền là tương sinh, nét đứt là tương khắc. Theo các định nghĩa Ngũ hành như là các quá trình ta thấy rõ ràng các hành có tương sinh và tương khắc nhau. Ví dụ, Kim là tích tụ tất sinh Thủy là phát tán. Nhưng Kim lại khắc Mộc, vì quá trình tích tụ làm kìm hãm (làm chậm) năng lượng cho đột phát và sinh mới. Nói theo ngôn ngữ dân gian Kim (tích tụ) là Ông của Mộc (sinh mới). Khi đó Kim là tiền đề xa của Mộc, cản trở và điều chỉnh các đặc tính của sự sinh mới. Ví dụ quá trình tích tụ ở phổi toàn dưỡng khí trong lành thì các tế bào sinh mới sẽ tươi tốt. Ngược lại có bụi silic thì sẽ sinh ung thư.
Trong khi đó chính Kim lại bị Hỏa khắc. Bởi vì quá trình Hỏa mang tính sao chép mô hình, rất nhanh, ào ào, mang tính phong trào,… Quá trình ấy không thích hợp cho các quá trình tích lũy. Cho nên người xưa nói “sự yên tĩnh có lợi cho việc tu dưỡng tâm hồn”.
Sự tương sinh tương khắc trong Ngũ hành được chiêm nghiệm bởi kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân. Cơ sở lý luận của tương sinh tương khắc là học thuyết âm dương. Chúng tôi sẽ trở lại chủ đề này trong một dịp khác.
1.3.3.Vài ví dụ về Ngũ hành
Ví dụ 1: Thánh Gióng
Truyền thuyết Thánh Gióng chính là một ví dụ tuyệt vời của dân Việt nam về Ngũ hành. Thánh đẻ ra ba năm không nói cười, nhưng khi có lệnh vua, thì cả làng tích gạo cho Thánh ăn, thợ thì rèn áo giáp sắt, ngựa sắt, và gậy sắt. Đó chính là lúc cả cộng đồng tích lũy cho một đối tượng: đó là hành Kim.
Khi mọi thứ đã đầy đủ Thánh vươn vai từ đứa bé con ba tuổi trở thành lực sỹ, nhẩy lên ngựa, phi ra trận địa. Mấy hành động đó là Thủy
Hành Mộc chính là lúc ngựa phun ra lửa, Thánh dùng gậy sắt đánh dẹp quân thù. Mô hình đánh giặc được xây dựng xong (công nghệ cao nhất đương thời, sức mạnh tập trung nhất).
Hành Hỏa là lúc các động tác đánh giặc được nhân lên, mở rộng mô hình. Vũ khí được hoàn thiện, hỏng gậy sắt dùng gậy tre. Nó đủ cứng, đủ dẻo dai hơn gậy thép, mà lại dễ làm, ai cũng có thể chế tạo được. Và chắc là lúc đó ngoài một người một ngựa của Thánh còn ngàn vạn người dân người lính khác nữa chứ. Khối tâm của ngàn người lúc đó được tập trung lại thành sức mạnh lớn.
Cuối cùng hành Thổ là sự tan rã, sự kết thúc của toàn bộ quá trình. Thánh về trời: Cái lãng mạn tuyệt vời của dân Việt: Thổ không phải luôn luôn là thổ địa.
Ví dụ 2. Đời người
Vòng đời của một con người là một ví dụ khác về Ngũ Hành. Kể từ lúc mới sinh ra đó là thời của Kim. Cha mẹ cho anh ta ăn uống, nuôi dưỡng cho lớn, cho học hành là quá trình tích luỹ năng lượng, quá trình hình thành một đối tượng mang tính Kim. Học được thành tài, anh ta bắt đầu vào đời, đó là trạng thái Thuỷ. Làm được một việc gì đó là Mộc. Nhân rộng nó ra là Hoả. Qua công việc đó anh ta có tiền bạc địa vi, có danh tiếng, đó là lúc bừng lên của Hoả. Nếu không khéo thì anh ta đi ngay vào Thổ, thân bại danh liệt, đời anh ta thành tro tàn im lặng. Nhiều người gặp vận Thổ vẫn vùng lên vì tích luỹ được yếu tố Kim ngay trong thất bại Thổ. Như vậy một đời người có thể phân thành nhiều vòng Ngũ hành.